Logo Bệnh viện Nhân dân 115
18/06/2020 14:40

Corona virus và hệ tim mạch: Tác động cấp tính và lâu dài

Sự bùng phát của dịch Covid-19 nhấn mạnh cần nhận thức rõ hơn tác động lên hệ tim mạch trước mắt và lâu dài do nhiễm virus, cùng những lỗ hổng kiến thức đáng kể mà các nghiên cứu trong tương lai cần giải quyết.

Đại dịch Covid-19 gần đây đưa ra một thách thức lớn trong cuộc chiến chống lại sự bùng phát của chủng virus mới và được tuyên bố là một tình trạng y tế khẩn cấp trên toàn thế giới. Với những hiểu biết rút ra từ các trận dịch trước đó bao gồm hội chứng hô hấp cấp tính nặng SARS, hội chứng hô hấp Trung Đông MERS và cúm H1N1, người ta nhận ra rằng gánh nặng sức khỏe tổng thể của chúng có thể không được đánh giá đúng mức vì các biểu hiện thường gặp ngoài phổi.

Các biến chứng tim mạch cấp và mạn tính của viêm phổi do virus khá thường gặp, đó là kết quả của nhiều cơ chế bao gồm thiếu máu cục bộ tương đối, đáp ứng viêm toàn thân và tổn thương qua trung gian mầm bệnh. Tuy nhiên, có rất ít dữ liệu được công bố về các biểu hiện tim mạch trong bối cảnh dịch bệnh do virus gây ra. Sự bùng phát của dịch Covid-19 nhấn mạnh cần phải nhận thức rõ hơn tác động lên hệ tim mạch trước mắt và lâu dài do nhiễm virus, cùng những lỗ hổng kiến thức đáng kể mà các nghiên cứu trong tương lai cần giải quyết.

I. TỔNG QUAN DỊCH TỄ HỌC

Trong hai thập kỷ qua, virus corona và cúm đã nhiều lần tấn công thế giới gây tử vong và thiệt hại về kinh tế một cách đáng kể. Đại dịch SARS năm 2002 làm 916 người tử vong trong số hơn 8.000 người bệnh ở 29 quốc gia, sau đó là sự xuất hiện của MERS năm 2012 làm ít nhất 800 người tử vong trong số 2.254 người bệnh ở 27 quốc gia. Bên cạnh virus corona, cúm gia cầm và cúm lợn vẫn là mối lo ngại đối với sức khỏe toàn cầu – trong đại dịch cúm 2009 có 18.500 trường hợp tử vong được xác định dương tính và hơn 200.000 trường hợp tử vong do bệnh hô hấp trên toàn thế giới.

Cuối năm 2019, một nhóm người bệnh viêm phổi với mức độ nặng khác nhau và không rõ căn nguyên ở Vũ Hán -Trung Quốc, báo trước cho sự khởi đầu của đại dịch Covid-19. Tính đến ngày 28 tháng 5 năm 2020 có 5.781.632 trường hợp được xác nhận (bao gồm 356.826 trường hợp tử vong ở 210 vùng lãnh thổ được báo cáo cho WHO) và con số này đang tiếp tục tăng lên. Nhiều điều vẫn còn chưa rõ về chủng virus này bao gồm: đường lây, tiến hóa virus, động học dịch bệnh, các điều trị chống virus và chiến lược kiểm soát bệnh.

II. BIẾN CHỨNG TIM MẠCH CỦA NHIỄM VIRUS ĐƯỜNG HÔ HẤP

Các biến chứng tim mạch do nhiễm cúm bao gồm viêm cơ tim, nhồi máu cơ tim cấp và đợt cấp suy tim mạn đã được ghi nhận trong các trận dịch trước đó và góp phần làm tăng tỉ lệ tử vong. Tương tự như vậy, dịch Covid-19 làm tăng gánh nặng đáng kể của các biến chứng và bệnh tim mạch đồng mắc (bảng I).

Hơn nữa, độ nặng của hội chứng hô hấp và nguy cơ kết cục xấu tăng lên ở những người bệnh đã mắc bệnh tim mạch trước đó. Tụt huyết áp, nhịp tim nhanh, nhịp tim chậm, rối loạn nhịp, hoặc thậm chí đột tử thường gặp ở những người bệnh SARS. Sự thay đổi điện tim và tăng men tim có thể là dấu hiệu của viêm cơ tim, và siêu âm tim thường phát hiện suy chức năng tâm trương thất trái dưới lâm sàng (với tỉ lệ cần thông khí cơ học cao hơn những người bệnh suy chức năng tâm thu và giảm phân suất tống máu). Báo cáo gần đây về các trường hợp nhiễm Covid-19 cho thấy người bệnh với các bệnh nền có nguy cơ biến chứng hoặc tử vong cao hơn – lên đến 50% ở các người bệnh nhập viện có bệnh nội khoa mạn tính. Trong một nghiên cứu đoàn hệ lớn nhất được công bố, tỉ lệ tổn thương tim cấp là 7.2%, sốc 8.7% và rối loạn nhịp là 16.7%.


III. SINH BỆNH HỌC NHIỄM VIRUS VÀ MỐI LIÊN QUAN VỚI HỆ TIM MẠCH

Bệnh tim mạch mạn tính có thể trở nên không ổn định khi nhiễm virus do mất cân bằng giữa sự gia tăng nhu cầu chuyển hóa và giảm bù trừ tim mạch.

Người bệnh với bệnh động mạch vành mạn và suy tim có nguy cơ cao vỡ mảng xơ vữa động mạch vành thứ phát do đáp ứng viêm hệ thống. Vì vậy nên tuân thủ việc duy trì các thuốc giúp ổn định mảng xơ vữa (aspirin, statin, ức chế beta, và ức chế hệ renin-angiotensin).

Đáp ứng viêm hệ thống thúc đẩy quá trình đông máu và làm tăng tỉ lệ huyết khối trong stent. Do đó, đánh giá chức năng tiểu cầu và điều trị kháng tiểu cầu tăng cường nên được xem xét trên những người bệnh có tiền sử can thiệp mạch vành.

Virus SARS-CoV-2 gắn vào tế bào tại các thụ thể đặc hiệu, đặc biệt là thụ thể ACE2 (angiotensin converting enzyme 2). Thụ thể này có trong tim tạo nên mối liên hệ giữa virus và hệ tim mạch. Các mô hình Murine và mẫu tử thiết ở người cho thấy SARS-CoV-2 có thể làm giảm biểu lộ thụ thể ACE2 trên cơ tim và phổi, dẫn đến tình trạng viêm cơ tim, phù phổi và suy hô hấp cấp. Các cytokine tiền viêm tăng ở phổi và các cơ quan khác ở người bệnh nhiễm corona virus và có thể gây suy đa cơ quan ở những ca nặng.

IV. LIỆU NGUY CƠ BỆNH LÝ TIM MẠCH CÓ DAI DẲNG

Đáp ứng viêm hệ thống mạnh mẽ và quá trình tăng đông máu có thể vẫn tồn tại ở những người bệnh mắc viêm phổi do virus ngay cả khi vấn đề nhiễm virus đã được giải quyết. Trên những nhóm người bệnh này, các ảnh hưởng lên hệ tim mạch có thể kéo dài tới 10 năm. Sử dụng các thuốc corticosteroid làm tăng biến cố bất lợi trên hệ tim mạch. Tuy nhiên, các dữ liệu về người bệnh sống sót sau trận dịch về lâu dài còn rất ít ỏi.

Trong một nghiên cứu về chuyển hóa trên 25 người bệnh sống sót sau dịch SARS, quá trình chuyển hóa lipid vẫn bị rối loạn 12 năm sau khi phục hồi trên lâm sàng, trong khi các bất thường về tim ghi nhận ở 8 người bệnh mắc cúm H7N9 khi nhập viện, đã trở lại bình thường sau 1 năm theo dõi.

Trong khi kiểu hình virus, các đặc điểm lâm sàng, độ nặng bệnh khi khởi phát và việc điều trị sớm quyết định tiên lượng ngắn hạn, thì tiên lượng lâu dài sau nhiễm virus còn thuộc vào các biểu hiện ngoài phổi. Các nghiên cứu tiếp theo ở những người bệnh sống sót sau nhiễm virus là vô cùng cần thiết.

V. KẾT LUẬN

Việc con người ngày càng di chuyển nhiều và dễ dàng qua lại giữa các nước đã đẩy nhanh tốc độ lan truyền virus trên toàn cầu. Trận dịch Covid-19 đe dọa đến sức khỏe cộng đồng nhưng các biểu hiện ngoài phổi và hậu quả lâu dài của chúng lại thường bị bỏ qua.

Đây là một trận dịch phát triển nhanh chóng với các đặc điểm lâm sàng còn chưa được nắm rõ và có khả năng tiến triển hơn nữa. Bệnh lý tim mạch sẵn có góp phần thúc đẩy các biến cố bất lợi xảy ra sớm và nhiễm virus có thể có tác động lâu trên toàn bộ hệ tim mạch. Do đó, phối hợp đa chuyên khoa ở những ca nặng (nhất là những người bệnh có bệnh nền tim mạch) và việc theo dõi người bệnh lâu dài là cần thiết.

Dịch từ: European Heart Journal (2020) 0, 1–3 doi:10.1093/eurheartj/ehaa231

Tác giả: Tian-Yuan Xiong, Simon Redwood, Bernard Prendergast, and Mao Chen



BS. Trần Thị Diễm Phương

Khoa Tim mạch tổng quát, Bệnh viện Nhân dân 115



TỔNG ĐÀI ĐẶT LỊCH KHÁM BỆNH

028 1080