Tham gia hội nghị có sự góp mặt của TS.BS Phan Văn Báu - Bí thư Đảng ủy, Giám đốc bệnh viện; BS.CK2 Nguyễn Ngọc Anh - Trưởng Khối Ngoại, trưởng khoa Ung bướu và Y học hạt nhân; các trưởng khoa/ phòng, bác sĩ của bệnh viện và các đại diện khoa Ngoại của các bệnh viện trên địa bàn TPHCM...
Mũi nhọn tạo nên thương hiệu BV Nhân dân 115
Trong những năm vừa qua, Bệnh viện Nhân dân 115 là được ghi nhận như là cánh chim đầu đàn của Bộ Y tế nói chung và Sở Y tế TPHCM nói riêng.
Khó khăn, vất vả, thiếu thốn trăm bề nhưng bù lại ấy là sự nhiệt huyết, tinh thần lao động hăng say, sự quyết tâm để tạo dựng thành công trong mỗi khoa phòng nói riêng và cả tập thể khối Ngoại - BV Nhân dân 115 nói chung.
TS.BS Phan Văn Báu phát biểu tại Hội nghị: “Mặc dù lực lượng bác sĩ khối Ngoại của chúng ta còn khá khiêm tốn nhưng trong những năm vừa qua đã đóng góp rất lớn trong sự phát triển của bệnh viện. Khoa Ngoại thần kinh đã làm nên thương hiệu riêng của Bệnh viện Nhân dân 115, nhắc đến Ngoại thần kinh là nhắc đến Bệnh viện 115. Trung tâm Ung bướu và Y học hạt nhân cũng là một trong những trung tâm đa mô thức có tên tuổi tại khu vực phía Nam và cả nước.
Khoa Ngoại Niệu - ghép thận cũng gây không ít tiếng vang, trong đó việc “Điều trị tiền liệt tuyến mà không qua phẫu thuật” là một trong hai thành tựu được công nhận tại TPHCM. Khoa Ngoại Niệu cũng mới lập “Guiness Việt Nam” với ghép thận cho bệnh nhân 76 tuổi - ca bệnh lớn tuổi nhất Việt Nam. Ngoại Chấn thương chỉnh hình cũng là đơn vị thường xuyên thay khớp háng cho các trường hợp bệnh lớn tuổi nhất Việt Nam. Y học thể thao cũng là khoa được các vận động viên và bệnh nhân tin tưởng chọn lựa… Có thể nói là khối Ngoại của chúng ta còn nhỏ bé nhưng đóng góp rất lớn cho bệnh viện và ngành Y tế Thành phố”.
Phòng tránh những biến chứng trong phẫu thuật răng khôn hàm dưới lệch, ngầm
Đề tài báo cáo có tên đầy đủ là “Đánh giá đặc điểm lâm sàng, X-quang và kết quả phẫu thuật răng khôn hàm dưới lệch, ngầm tại Bệnh viện Nhân dân 115” do BS.CK2 Trần Xuân Thông - trưởng khoa Răng hàm mặt - Mắt thực hiện.
Nghiên cứu các đặc điểm lâm sàng, X-quang giúp phân loại, tiên lượng và lập kế hoạch tốt cho việc phẫu thuật răng khôn hàm dưới lệch, ngầm.
Theo BS.CK2 Trần Xuân Thông, có 62 răng/ 62 bệnh nhân có răng khôn hàm dưới lệch, ngầm tại khoa Răng hàm mặt - Mắt được theo dõi, đánh giá trong quá trình nghiên cứu, trong khoảng từ 12/2015 - 8/2016.
- Bệnh nhân có răng khôn hàm dưới lệch, ngầm đến khám, phẫu thuật phần lớn ở nhóm tuổi từ 18 đến dưới 25 tuổi, nữ cao hơn nam và chủ yếu là do đau. Biến chứng xảy ra do răng khôn hàm dưới lệch, ngầm thường gặp như viêm bàng quang, viêm lợi trùm, tiêu xương mật xa răng 7, viêm mô tế bào…
- Bệnh nhân có răng khôn hàm dưới lệch chiếm tỉ lệ cao (77,4%), trong đó lệch gần chiếm ưu thế, răng khôn hàm dưới ngầm chiếm tỉ lệ thấp (22,6%), răng lệch ngầm ngang là chủ yếu.
- Dựa vào thang điểm đánh giá và phân loại răng khôn hàm dưới lệch, ngầm, kết quả phân loại độ khó nhổ răng khôn hàm dưới mức trung bình chiếm ưu thế trong nghiên cứu.
- Thời gian phẫu thuật trung bình từ 30 - 60 phút là chủ yếu, biến chứng thường gặp nhất sau phẫu thuật là đau, sưng, há miệng chiếm tỷ lệ cao, chảy máu, tê môi dưới chiếm tỷ lệ thấp; phân bố các biến chứng sau phẫu thuật như đau, sưng, há miệng hạn chế gặp ở độ khó nhổ II và III.
- Diễn biến kết quả sau phẫu thuật răng khôn hàm dưới lệch, ngầm: Tốt, đạt kết quả cao, tăng dần vào các ngày thứ 3, 7 và 100% tốt sau 1 tháng.
BS.CK2 Trần Xuân Thông cũng kiến nghị: Nên tư vấn, khuyến khích bệnh nhân phẫu thuật răng khôn hàm dưới lệch, ngầm trước khi có biến chứng. Tổ chức khám sức khỏe răng miệng định kỳ rộng rãi và thường xuyên trong cộng đồng để sớm phát hiện những những răng lệch, ngầm có nguy cơ biến chứng và điều trị phẫu thuật sớm. Vì số lượng ca bệnh còn hạn chế, chưa thể khẳng định được nhiều nên cần tiếp tục có những nghiên cứu về phẫu thuật răng khôn hàm dưới lệch, ngầm với những cỡ mẫu lớn hơn.
Lợi ích xạ trị toàn bộ hộp sọ trong ung thư di căn não?
Câu hỏi cũng là nội dung chính, hướng triển khai của đề tài: “Đánh giá lợi ích xạ trị toàn bộ hộp sọ trong ung thư di căn não tại Bệnh viện Nhân dân 115” do ThS.BS Lê Anh Đức - khoa Ung bướu và Y học hạt nhân trình bày.
Nghiên cứu của ThS.BS Lê Anh Đức được nghiên cứu mô tả hàng loạt trên 94 bệnh nhân ung thư di căn não được chẩn đoán xác định, có chỉ định xạ trị toàn bộ hộp sọ tại Bệnh viện Nhân dân 115 từ 1/1/2016 - 1/6/2017.
- Sau khi được xạ trị toàn bộ hộp sọ, các triệu chứng chính khiến bệnh nhân nhập viện giảm ở 60% mẫu nghiên cứu, tuy nhiên vẫn còn 40% các bệnh nhân vẫn cảm thấy không cải thiện và có tăng trong 2 trường hợp.
- Ghi nhận có sự liên quan của nhóm tuổi, giới tính và phẫu thuật u não trước khi xạ trị toàn bộ hộp sọ.
- Ở nhóm bệnh nhân dưới 60 tuổi, sau khi xạ trị toàn bộ hộp sọ thì giảm các triệu chứng rõ rệt hơn đối với bệnh nhân trên 60 tuổi. Điều này có thể do khả năng chịu đựng và đáp ứng với các phương pháp điều trị cao hơn ở nhóm bệnh nhân trẻ tuổi.
- Ở nhóm bệnh nhân Nam thì các triệu chứng cũng giảm có ý nghĩa thống kê so với Nữ giới. Điều này giúp chúng ta thấy được sự khác biệt về đáp ứng cũng như khả năng chịu đựng ở giai đoạn cuối thay đổi theo giới tính và nam giới cao hơn phụ nữ.
- Không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về thời gian sống còn giữa các nhóm: ung thư nguyên phát, giai đoạn bệnh, di căn não hoặc không, các vị trí di căn não, số lượng di căn não, kích thước u não, tình trạng phù não, tổng trạng bệnh nhân khi vào xạ trị toàn bộ hộp sọ.
Hoại tử chỏm xương đùi: Căn bệnh đang trẻ hóa và phương pháp điều trị bảo tồn
Đề tài: “Kết quả bước đầu điều trị hoại tử chỏm xương đùi giai đoạn sớm bằng khoan giảm áp cổ-chỏm” được BS.CK2 Nguyễn Hữu Tâm - trưởng khoa Ngoại Chấn thương chỉnh hình báo cáo, do nhóm nghiên cứu BS.CK2 Nguyễn Hữu Tâm, BS.CK1 Nguyễn Cao Viễn, Đặng Thanh Sen thực hiện.
Theo nhóm nghiên cứu, bệnh thường gặp nhất ở độ tuổi trung niên (25-50 tuổi), nam thường gặp nhiều hơn nữ (nam chiếm 80%) hay xảy ra ở cả 2 bên khớp háng nhưng thường xảy ra ở 1 bên này rồi sau đó xảy ra ở bên kia. Ngoài ra hoại tử chỏm xương đùi còn xuất hiện thứ phát sau chấn thương và một số nguyên nhân khác và phụ thuộc vào tuổi mắc các bệnh lý nền.
Với mục tiêu điều trị là dự phòng và hạn chế tối đa tiến triển nặng lên. Phương pháp thường được triển khai là khoan giảm áp khi tổn thương độ 1 và 2, bác sĩ điều trị dùng mũi khoan rỗng có đường kính to cỡ từ 6mm đến 8mm để khoan tạo đường hầm.
Báo cáo kết luận:
- Hoại tử chỏm xương đùi khởi phát lúc đầu âm thầm và hiện nay phát hiện ngày càng nhiều thường gặp ở người trẻ. Khi bệnh nhân xuất hiện triệu chứng thì tổn thương hoại tử tiến triển mức độ nhanh đến thời điểm can thiệp phẫu thuật là cần thiết.
- Việc phát hiện sớm và điều trị kịp thời, đặc biệt ở giai đoạn cấu trúc giải phẫu của chỏm xương đùi còn nguyên vẹn là lý tưởng vì dù sao, một khớp háng thật vẫn tốt hơn là sử dụng khớp háng nhân tạo. Vai trò của MRI có độ nhạy cao, là phương pháp giúp chẩn đoán sớm và phân giai đoạn chính xác.
- Việc dự phòng hoại tử chỏm xương đùi đòi hỏi phải loại bỏ các yếu tố nguy cơ, trong đó bên cạnh các yếu tố bệnh nghề nghiệp là các yếu tố nguy cơ khác có thể loại bỏ được là rượu và thuốc lá.
- Điều trị bằng khoan giảm áp cổ - chỏm đã cho kết quả tương đối khả quan với kết quả bước đầu góp phần dự phòng làm chậm quá trình thoái hóa khớp háng, giảm triệu chứng lâm sàng, cải thiện chất lượng sống người bệnh.